Huyết áp được định nghĩa là áp lực của dòng máu lên lòng mạch trong quá trình vận chuyển máu. Huyết áp ở đây được nói đến là huyết áp động mạch, chúng thể hiện một phần sự hoạt động của hệ tuần hoàn cũng như nhiều cơ quan khác trong cơ thể.
Dấu hiệu huyết áp thấp
Huyết áp thấp là khi huyết áp tâm thu nhỏ hơn 90 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương nhỏ hơn 60 mmHg. Khi huyết áp thấp làm cho việc tưới máu tới các cơ quan quan trọng trở nên khó khăn, làm chúng hoạt động không bình thường và có thể gây nguy hiểm cho cơ thể. Khi đó, cơ thể có những biểu hiện hoa mắt, chóng mặt, nhịp tim nhanh,…
Dấu hiệu huyết áp thấp thường biểu hiện ở phụ nữ, những người thiếu dinh dưỡng và thường xuyên mất ngủ. Ngoài ra, còn một loại nữa là hạ huyết áp tư thế khi huyết áp giảm khi thay đổi tư thế đột ngột.
Nhịp tim của người bình thường được điều khiển rất nghiêm ngặt bởi nhiều cơ quan nhằm ổn định ở mức bình thường không quá nhanh cũng không quá chậm. Thường nhịp tim được duy trì ở mức 60-100 nhịp/phút. Tuy nhiên, nếu nhịp tim từ 100 nhịp/phút trở lên thì được gọi là nhịp tim nhanh. Khi đó, cơ thể có thể trở nên rối loạn, có thể có cảm giác mệt mỏi, hồi hộp trống ngực, tức nặng ngực… và nhiều dấu hiệu kèm theo tùy thuộc vào nguyên nhân gây nên.
Nhịp tim nhanh từ 100 nhịp/phút trở lên
Nhịp tim nhanh có thể là một dấu hiệu của rối loạn hoạt động điện của tim khi những nút tạo nhịp bị kích thích tạo nhịp quá mức gây ra, đôi khi cũng là do tác động của hệ thần kinh hoặc cũng là do kích hoạt hệ giao cảm làm tăng nhịp tim. Nói chung là có rất nhiều nguyên nhân có thể gây ra chứng nhịp tim nhanh.
Thông thường, nhịp tim nhanh sẽ gây nên huyết áp cao, nhưng trong một số trường hợp, huyết áp có thể giảm
Hơn nữa, khi tim đập không đồng bộ, không hiệu quả làm cho máu đi nuôi cơ thể kém, từ đó làm huyết áp giảm có thể dưới mức bình thường. Khi đó, người bệnh thường có cảm giác hồi hộp trống ngực, hụt hơi, mệt mỏi, tức nặng ngực và đôi khi đau ngực kèm theo choáng váng, hoa mắt chóng mặt. Chứng rối loạn hoạt động điện của tim càng trở nên nguy hiểm khi người bệnh có mắc kèm những bệnh về tim mạch hoặc các bệnh mạn tính khác.
Rối loạn hoạt động điện của tim làm huyết áp giảm, nhịp tim nhanh
Ở những người bình thường, ít khi gặp trạng thái hạ huyết áp tư thế hoặc có gặp nhưng nhẹ hoặc trôi qua nhanh làm bản thân không cảm thấy sự thay đổi. Tuy nhiên, với một số người mắc bệnh tim mạch, dùng một số loại thuốc có thể gặp hiện tượng này thường xuyên gây choáng váng, khó chịu, hồi hộp, khó thở, đau tức ngực…thì vấn đề này cần phải kiểm soát về tim mạch.
Bệnh tim mạch là những bệnh nguy hiểm có thể cả tới tính mạng nên không thể chủ quan. Những trường hợp nhịp tim nhanh và huyết áp tụt cũng như một dấu hiệu cảnh báo sớm cho người bệnh có những biện pháp thăm khám và điều trị hợp lý.
Hơn nữa, với tình trạng hạ huyết áp đồng nghĩa với dòng máu di chuyển chậm trong lòng mạch cũng làm nguy cơ tạo cục máu đông tăng lên. Khi cục máu đông di chuyển tới các mạch máu não làm tắc một đoạn mạch nào đó có thể gây nên đột quỵ cho bệnh nhân. Khi đó, người bệnh sẽ thấy choáng váng, mất vận động cảm giác một bên người,…
Để điều trị được bệnh, các bác sĩ cần thăm khám và chẩn đoán bệnh, tìm nguyên nhân gây bệnh để điều trị hiệu quả nhất. Việc chẩn đoán bệnh cũng không phải là vấn đề đơn giản vì có rất nhiều nguyên nhân tiềm ẩn gây nên. Các bác sĩ sẽ chẩn đoán, điều trị bằng thuốc, điều chỉnh chế độ ăn và cả những phương pháp can thiệp nếu cần thiết.
Khám tim mạch để được chẩn đoán và điều trị kịp thời
Nếu những trường hợp rung nhĩ đơn giản, các bác sĩ sẽ chỉ định dùng các thuốc chống đông làm hạn chế khả năng tạo cục máu đông tại tim. Đồng thời, sẽ sử dụng thêm các nhóm thuốc hỗ trợ ổn định nhịp tim, chống suy tim cho bệnh nhân.
Những trường hợp rối loạn nhịp khác, bác sĩ có thể sử dụng sốc điện để chuyển nhịp của bệnh nhân về nhịp bình thường. Một số biện pháp can thiệp có thể sử dụng tùy vào nguyên nhân:
Như vậy, dấu hiệu hạ huyết áp và nhịp tim nhanh là một biểu hiện của những bệnh tim mạch nguy hiểm vì thế mà người bệnh không thể chủ quan. Những thông tin trên giúp bạn đọc có một số hiểu biết cơ bản nhằm nhận biết và có hướng xử trí, đưa tới cơ sở y tế nếu cần thiết.